top of page

(Part 2) Tổng sản phẩm quốc nội (GDP): Công thức và cách sử dụng


Tổng sản phẩm quốc nội
Tổng sản phẩm quốc nội

GDP bình quân đầu người


GDP bình quân đầu người là thước đo GDP bình quân đầu người trong dân số của một quốc gia. Nó chỉ ra rằng lượng sản lượng hoặc thu nhập bình quân đầu người trong nền kinh tế có thể biểu thị năng suất trung bình hoặc mức sống trung bình. GDP bình quân đầu người có thể được biểu thị theo danh nghĩa, thực tế (đã điều chỉnh theo lạm phát) hoặc ngang giá sức mua (PPP).


Theo cách giải thích cơ bản, GDP bình quân đầu người cho thấy giá trị sản xuất kinh tế có thể được quy cho mỗi cá nhân là bao nhiêu. Điều này cũng có nghĩa là thước đo của cải tổng thể của quốc gia vì giá trị thị trường GDP trên đầu người cũng sẵn sàng đóng vai trò là thước đo thịnh vượng.


GDP bình quân đầu người thường được phân tích cùng với các thước đo GDP truyền thống hơn. Các nhà kinh tế sử dụng số liệu này để hiểu rõ hơn về năng suất nội địa của chính đất nước họ và năng suất của các quốc gia khác.


GDP bình quân đầu người xem xét cả GDP của một quốc gia và dân số của quốc gia đó. Do đó, điều quan trọng là phải hiểu mỗi yếu tố đóng góp như thế nào vào kết quả chung và ảnh hưởng đến tăng trưởng GDP bình quân đầu người như thế nào.


Ví dụ: nếu GDP bình quân đầu người của một quốc gia đang tăng lên với mức dân số ổn định, thì đó có thể là kết quả của những tiến bộ công nghệ đang tạo ra nhiều sản phẩm hơn với cùng mức dân số. Một số quốc gia có thể có GDP bình quân đầu người cao nhưng dân số nhỏ, điều này thường có nghĩa là họ đã xây dựng được nền kinh tế tự cung tự cấp dựa trên nguồn lực đặc biệt dồi dào.


Tốc độ tăng trưởng GDP


Tốc độ tăng trưởng GDP so sánh sự thay đổi hàng năm (hoặc hàng quý) về sản lượng kinh tế của một quốc gia để đo lường tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Thường được biểu thị bằng tỷ lệ phần trăm, thước đo này phổ biến đối với các nhà hoạch định chính sách kinh tế vì tăng trưởng GDP được cho là có mối liên hệ chặt chẽ với các mục tiêu chính sách quan trọng như lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp.


Nếu tốc độ tăng trưởng GDP tăng nhanh, đó có thể là tín hiệu cho thấy nền kinh tế đang quá nóng và ngân hàng trung ương có thể tìm cách tăng lãi suất. Ngược lại, các ngân hàng trung ương coi tốc độ tăng trưởng GDP đang giảm (hoặc âm) (tức là suy thoái kinh tế ) là tín hiệu cho thấy lãi suất nên được hạ xuống và việc kích thích đó có thể là cần thiết.


Ngang giá sức mua GDP (PPP)


Mặc dù không trực tiếp đo lường GDP, nhưng các nhà kinh tế xem xét PPP để xem GDP của một quốc gia tính bằng đô la quốc tế như thế nào bằng cách sử dụng phương pháp điều chỉnh sự khác biệt về giá cả địa phương và chi phí sinh hoạt để so sánh giữa các quốc gia về sản lượng thực, thu nhập thực, và mức sống.


GDP so với GNP so với GNI


Mặc dù GDP là thước đo được sử dụng rộng rãi nhưng vẫn có nhiều cách khác để đo lường tốc độ tăng trưởng kinh tế của một quốc gia.


Trong khi GDP đo lường hoạt động kinh tế trong phạm vi biên giới vật lý của một quốc gia (cho dù nhà sản xuất là người bản địa ở quốc gia đó hay các tổ chức thuộc sở hữu nước ngoài), thì tổng sản phẩm quốc dân (GNP) là thước đo tổng sản lượng của người dân hoặc tập đoàn bản địa của một quốc gia, bao gồm cả những người có trụ sở ở nước ngoài. GNP loại trừ sản xuất trong nước của người nước ngoài.


Tổng thu nhập quốc dân (GNI) là một thước đo khác của tăng trưởng kinh tế. Nó là tổng của tất cả thu nhập mà công dân hoặc công dân của một quốc gia kiếm được (bất kể hoạt động kinh tế cơ bản diễn ra trong nước hay nước ngoài).


Mối quan hệ giữa GNP và GNI tương tự như mối quan hệ giữa cách tiếp cận sản xuất (sản lượng) và cách tiếp cận thu nhập được sử dụng để tính GDP.


GNP sử dụng phương pháp sản xuất, trong khi GNI sử dụng phương pháp thu nhập. Với GNI, thu nhập của một quốc gia được tính bằng thu nhập trong nước, cộng với thuế kinh doanh gián tiếp và khấu hao (cũng như thu nhập ròng từ yếu tố nước ngoài ).


Con số thu nhập ròng từ yếu tố nước ngoài được tính bằng cách trừ tất cả các khoản thanh toán cho các công ty và cá nhân nước ngoài khỏi tất cả các khoản thanh toán cho các doanh nghiệp trong nước.


Trong nền kinh tế ngày càng toàn cầu hóa, GNI được coi là thước đo tốt hơn cho sức khỏe tổng thể của nền kinh tế so với GDP. Bởi vì một số quốc gia có phần lớn thu nhập được các tập đoàn và cá nhân nước ngoài rút ra nước ngoài nên con số GDP của họ cao hơn nhiều so với con số thể hiện GNI của họ.


Ví dụ, vào năm 2019, Luxembourg có sự chênh lệch đáng kể giữa GDP và GNI, chủ yếu là do các khoản thanh toán lớn được thực hiện cho phần còn lại của thế giới thông qua các tập đoàn nước ngoài kinh doanh tại Luxembourg, bị thu hút bởi luật thuế thuận lợi của quốc gia nhỏ bé này.


Ngược lại, GNI và GDP ở Mỹ không khác biệt đáng kể. GDP của Hoa Kỳ là khoảng 26,80 nghìn tỷ USD tính đến quý 2-2023 trong khi GNI của nước này là khoảng 25,84 nghìn tỷ USD vào cuối năm 2022.


Điều chỉnh GDP


Một số điều chỉnh có thể được thực hiện đối với GDP của một quốc gia để nâng cao tính hữu ích của con số này. Đối với các nhà kinh tế, GDP của một quốc gia tiết lộ quy mô của nền kinh tế nhưng cung cấp rất ít thông tin về mức sống ở quốc gia đó.


Một phần lý do cho điều này là quy mô dân số và chi phí sinh hoạt không nhất quán trên toàn thế giới. Các nhà kinh tế có thể sử dụng hệ số thuế trên GDP để hiểu rõ hơn về tác động của doanh thu thuế của một quốc gia đến nền kinh tế và người dân của quốc gia đó.


Ví dụ, so sánh GDP danh nghĩa của Trung Quốc với GDP danh nghĩa của Ireland sẽ không cung cấp nhiều thông tin có ý nghĩa về thực tế cuộc sống ở các quốc gia đó vì Trung Quốc có dân số gấp khoảng 300 lần Ireland.


Để giúp giải quyết vấn đề này, các nhà thống kê đôi khi so sánh GDP bình quân đầu người giữa các quốc gia. GDP bình quân đầu người được tính bằng cách chia tổng GDP của một quốc gia cho dân số và con số này thường được trích dẫn để đánh giá mức sống của quốc gia. Mặc dù vậy, biện pháp vẫn chưa hoàn hảo.


Giả sử Trung Quốc có GDP bình quân đầu người là 1.500 USD, trong khi Ireland có GDP bình quân đầu người là 15.000 USD. Điều này không nhất thiết có nghĩa là người Ireland trung bình khá hơn người Trung Quốc trung bình 10 lần. GDP bình quân đầu người không tính đến mức sống đắt đỏ ở một quốc gia.


PPP cố gắng giải quyết vấn đề này bằng cách so sánh số lượng hàng hóa và dịch vụ mà một đơn vị tiền được điều chỉnh theo tỷ giá hối đoái có thể mua ở các quốc gia khác nhau - so sánh giá của một mặt hàng hoặc giỏ mặt hàng ở hai quốc gia sau khi điều chỉnh tỷ giá hối đoái giữa cả hai, trên thực tế.


GDP bình quân đầu người thực tế, được điều chỉnh theo sức mua tương đương, là một số liệu thống kê được tinh chỉnh kỹ càng để đo lường thu nhập thực tế, vốn là một yếu tố quan trọng của phúc lợi.


Một cá nhân ở Ireland có thể kiếm được 100.000 USD một năm, trong khi một cá nhân ở Trung Quốc có thể kiếm được 50.000 USD một năm. Về mặt danh nghĩa, người lao động ở Ireland khá hơn. Tuy nhiên, nếu giá thực phẩm, quần áo và các mặt hàng khác trong một năm ở Ireland cao gấp ba lần so với ở Trung Quốc, thì người lao động ở Trung Quốc có thu nhập thực tế cao hơn .


Cách sử dụng dữ liệu GDP


Hầu hết các quốc gia đều công bố dữ liệu GDP hàng tháng và hàng quý. Tại Hoa Kỳ, Cục Phân tích Kinh tế (BEA) công bố báo cáo trước về GDP hàng quý bốn tuần sau khi quý kết thúc và báo cáo cuối cùng ba tháng sau khi quý kết thúc.


Các bản phát hành của BEA rất đầy đủ và chứa nhiều chi tiết, cho phép các nhà kinh tế và nhà đầu tư có được thông tin và hiểu biết sâu sắc về các khía cạnh khác nhau của nền kinh tế.


Tác động lên thị trường của GDP nhìn chung bị hạn chế do nó mang tính lạc hậu và một khoảng thời gian đáng kể đã trôi qua kể từ thời điểm cuối quý đến khi công bố dữ liệu GDP. Tuy nhiên, dữ liệu GDP có thể có tác động đến thị trường nếu con số thực tế khác biệt đáng kể so với kỳ vọng.


Vì GDP cung cấp dấu hiệu trực tiếp về sức khỏe và sự tăng trưởng của nền kinh tế nên các doanh nghiệp có thể sử dụng GDP làm kim chỉ nam cho chiến lược kinh doanh của mình.


Các cơ quan chính phủ, chẳng hạn như Fed ở Hoa Kỳ, sử dụng tốc độ tăng trưởng và các số liệu thống kê GDP khác như một phần của quá trình ra quyết định trong việc xác định loại chính sách tiền tệ nào sẽ thực hiện.


Nếu tốc độ tăng trưởng chậm lại, họ có thể thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng để cố gắng thúc đẩy nền kinh tế. Nếu tốc độ tăng trưởng mạnh, họ có thể sử dụng chính sách tiền tệ để làm mọi thứ chậm lại nhằm tránh lạm phát.


GDP thực tế là chỉ số nói lên nhiều nhất về sức khỏe của nền kinh tế. Nó được theo dõi và thảo luận rộng rãi bởi các nhà kinh tế, nhà phân tích, nhà đầu tư và nhà hoạch định chính sách. Việc công bố trước dữ liệu mới nhất hầu như sẽ luôn tác động đến thị trường, mặc dù tác động đó có thể bị hạn chế, như đã lưu ý ở trên.


GDP và đầu tư


Các nhà đầu tư theo dõi GDP vì nó cung cấp khuôn khổ cho việc ra quyết định. Dữ liệu về lợi nhuận doanh nghiệp và hàng tồn kho trong báo cáo GDP là nguồn thông tin tuyệt vời cho các nhà đầu tư cổ phần vì cả hai loại đều thể hiện tổng mức tăng trưởng trong kỳ; Dữ liệu lợi nhuận doanh nghiệp cũng hiển thị lợi nhuận trước thuế, dòng tiền hoạt động và số liệu chi tiết cho tất cả các lĩnh vực chính của nền kinh tế.


So sánh tốc độ tăng trưởng GDP của các quốc gia khác nhau có thể đóng vai trò quan trọng trong việc phân bổ tài sản, hỗ trợ các quyết định về việc có nên đầu tư vào các nền kinh tế đang phát triển nhanh ở nước ngoài hay không và nếu có thì đầu tư vào nền kinh tế nào.


Một số liệu thú vị mà các nhà đầu tư có thể sử dụng để hiểu được giá trị của thị trường chứng khoán là tỷ lệ tổng vốn hóa thị trường trên GDP , được biểu thị bằng phần trăm. Tương đương gần nhất với điều này về mặt định giá cổ phiếu là vốn hóa thị trường của công ty trên tổng doanh thu (hoặc doanh thu), mà tính theo mỗi cổ phiếu là tỷ lệ giá trên doanh thu nổi tiếng.


Giống như cổ phiếu trong các lĩnh vực khác nhau giao dịch với tỷ lệ giá trên doanh thu rất khác nhau, các quốc gia khác nhau giao dịch với tỷ lệ vốn hóa thị trường trên GDP theo đúng nghĩa đen là trên khắp bản đồ.


Ví dụ, theo Ngân hàng Thế giới , Mỹ có tỷ lệ vốn hóa thị trường trên GDP là 193,3% vào năm 2020, trong khi Trung Quốc có tỷ lệ này chỉ hơn 83,2% và Hồng Kông có tỷ lệ này là 1.777,2%.


Tuy nhiên, tiện ích của tỷ lệ này nằm ở việc so sánh nó với các chuẩn mực lịch sử của một quốc gia cụ thể. Ví dụ, Hoa Kỳ có tỷ lệ vốn hóa thị trường trên GDP là 141,6% vào cuối năm 2006, tỷ lệ này giảm xuống còn 78,5% vào cuối năm 2008.18Nhìn lại, những khu vực này lần lượt đại diện cho việc định giá quá cao và định giá thấp đáng kể đối với cổ phiếu của Hoa Kỳ.


Nhược điểm lớn nhất của dữ liệu này là thiếu tính kịp thời; các nhà đầu tư chỉ nhận được một bản cập nhật mỗi quý và các bản sửa đổi có thể đủ lớn để làm thay đổi đáng kể phần trăm thay đổi trong GDP.



Theo Investopedia



Theo dõi tiếp các bài viết của chúng tôi tại www.finverse.vn





Bài đăng gần đây

Xem tất cả

Bài học về tài chính và đầu tư từ Monopoly game

Monopoly đã là một trò chơi cờ cổ điển trong hơn 100 năm. Đây là một trò chơi giao dịch bất động sản mà hầu hết mọi người đều chơi để giải trí và có cơ hội trở thành ông trùm bất động sản. Nhưng nếu b

bottom of page